Vì là Trung Thu, phần lớn ngư dân trên sông đều đã về nhà ăn tết.
Chỉ còn lác đác vài chiếc thuyền đánh cá.
Ta dẫn Nguyệt Thu tìm một phụ nhân lái thuyền hỏi thăm, mới biết, mùa này đã không còn cá quế, chỉ có vài con cá vược vừa mới bắt được.
Qua Châu gần sông nước, nổi tiếng với cá vược bốn mang.
Nhưng loại cá đó dùng để nấu canh thì ngon, làm món chiên thì kém một chút.
Chỉ là bây giờ, không còn cách nào khác.
Ta mượn nồi niêu của phụ nhân lái thuyền, chặt cá vược thành miếng, chiên qua dầu mỏng, sau đó rưới một lớp tương cà chua lên cũng coi như tạm ổn.
Còn bánh chiên đường, thì khó hơn nhiều.
Liễu di nương là người Kim Lăng, đương nhiên làm bánh đường rất giỏi.
Nhưng ta chưa từng thấy loại bánh đó, càng chưa từng nếm thử, bây giờ dù có muốn làm theo, cũng không có mẫu để làm theo.
Bất đắc dĩ, ta chỉ đành cầu xin chưởng quỹ bán bánh trung thu, bỏ ra nửa lượng bạc, nhờ ông ta làm ra một đĩa theo lời ta miêu tả.
Đợi đến khi bánh và cá đều được bày ra trước mặt Nguyệt Thu, trăng tròn đã treo cao.
Tiểu cô nương chỉ cắn một miếng cá, trên gò má nước mắt đã rơi thành chuỗi.
Ta hoảng hốt.
Ta biết tay nghề nấu ăn của mình không tốt, nhưng dù có dở, cũng không đến mức này chứ?
“A tỷ, vị của nó, giống hệt vị của mẫu thân ta làm.”
Ta sững sờ.
Không thể ngờ, tay nghề của Liễu di nương lại kém đến mức đó.
Sau này ta mới hiểu.
Ý của tiểu cô nương là – dù cảnh còn người, nhưng tấm lòng quan tâm, yêu thương dành cho con bé, thì vẫn giống nhau.
Đêm đó, Nguyệt Thu ăn hết cá và bánh đường.
Ta cõng con bé, đi một mạch từ chợ trở về Tống gia.
Hôm đó con bé lẩm bẩm kể rất nhiều chuyện.
Kể về con búp bê vải bên cạnh gối của mình, cũng kể về cháo bách hợp Liễu di nương nấu cho mình.
Nguyệt Thu ôm chặt lấy ta, gò má áp vào cổ ta.
“Đêm đó, a huynh cũng cõng muội đi một đoạn đường rất dài, huynh ấy nói với muội, dù bản thân không còn đường sống, cũng sẽ mở ra một con đường sống cho muội.”
“Bây giờ muội sống rất tốt, nhưng a tỷ, a huynh của muội đang ở đâu vậy?”
Bước chân ta khựng lại, không thể nói được gì.
Kể từ khi đến Qua Châu, ta chưa từng gặp lại Thôi Hạc Minh, tự nhiên không biết hắn bây giờ thế nào.
Ta có chút không đành lòng, suy nghĩ một lúc, nói dối: “Nguyệt Thu sống tốt, a huynh sẽ sống tốt thôi, đợi đến sinh nhật sau của Nguyệt Thu, a huynh sẽ đến đón Nguyệt Thu.”
Sinh nhật của con bé vào ngày Đông chí, tính ra, chỉ ba, năm tháng nữa là có thể gặp lại a huynh của con bé.
Nguyệt Thu lập tức vui vẻ trở lại.
Đây vốn chỉ là một câu nói dối để dỗ trẻ con.
Trẻ con mau quên, ta vốn nghĩ chẳng bao lâu con bé sẽ quên.
Nhưng không ngờ, trước sinh nhật của Nguyệt Thu, Thôi Hạc Minh lại thật sự đến.
—
Giữa tháng mười, ta nhận được một phong thư.
Bức thư được gửi đến một cách kỳ lạ, không có tên người gửi, chỉ kẹp trong đống vải được giao hàng.
Ta không nhìn ra manh mối, liền mang về cho mẫu thân xem.
Trước đây bà từng theo ngoại tổ, cũng đã trải qua nhiều chuyện, nhìn một cái là biết đây là trò xạ phúc*.
*xạ phúc: là một trò chơi bói toán, đoán vật trong dân gian, có xuất xứ từ thời Hán thư, nơi người chơi đoán danh tính một vật thể đã bị che giấu hoặc một sự vật sắp diễn ra.
Liền lấy một bát trà, nhúng ướt tờ giấy, rồi hơ qua ánh nến.
Quả nhiên hiện ra chữ viết.
Bức thư rất ngắn, chỉ viết hẹn ta ba ngày sau gặp mặt ở quán trà trong thành, không có ký tên.
Nhưng ta lại nhìn ra ngay đây là nét chữ của Thôi Hạc Minh.
Chỉ vì dấu mực ở cuối thư in xuống, rõ ràng giống hệt với chiếc áo cũ của Nguyệt Thu.
Việc kinh doanh của Tống gia ở Qua Châu không nhỏ, những bộ quần áo ta bán ra hắn chắc chắn đã thấy qua.
Vì vậy mới ở cuối thư cố ý ám chỉ cho ta.
Tuy không biết hắn đang có ý đồ gì, nhưng ta vẫn chọn đi gặp theo lời hẹn.
Ban đầu ta muốn đưa Nguyệt Thu đi cùng, nhưng mẫu thân nói con bé đang đi học ở học đường trong tộc, nếu xin nghỉ sẽ làm kinh động đến gia đình cữu mẫu, nên đành thôi.
Ngày gặp mặt, ta đi đến cửa hàng một chuyến, dặn dò một vài việc, rồi mới đến quán trà.
Đợi rất lâu, cuối cùng cũng đợi được Thôi Hạc Minh.
Một năm không gặp, hắn gầy đi rất nhiều, gương mặt càng thêm lạnh lùng, xa cách như tùng bách nhiễm sương.
Nhưng lúc này, hắn lại cúi mình chắp tay hành lễ với ta: “Lý cô nương.”
Ta cũng gật đầu đáp lễ.
Thôi Hạc Minh đóng cửa sổ lại, uống một chén trà, rồi mới mở lời: “Không biết Nguyệt Thu bây giờ, sống có tốt không?”
Hắn không gọi Triệu Ngọc, chỉ nói Nguyệt Thu, tức là đã sớm đi dò hỏi chuyện nhà cữu cữu rồi.
Thế là, ta kể lại tỉ mỉ việc bọn ta đến Qua Châu thế nào, kiếm sống ra sao, và làm thế nào để đưa Nguyệt Thu đến học đường trong tộc.
Nữ nhi nhà gia giáo luôn phải giữ lễ nam nữ đại phòng, ta vốn nghĩ hắn sẽ không vui.
Nhưng Thôi Hạc Minh gật đầu khen: “Lệnh đường rất thấu hiểu đại nghĩa, quả thực là nên để Nguyệt Thu biết chữ, hiểu đạo lý, bằng không sau này học vỡ lòng, e là đã muộn.”
Ta nghe thấy hai chữ “sau này”, ánh mắt sáng lên.
Truy hỏi: “Bây giờ ngươi tìm ta đến, là muốn đón Nguyệt Thu về sao?”
Thôi Hạc Minh nhìn ta thật sâu, rồi muốn nói lại thôi: “Cũng không phải.”
“Là ta ẩn mình mà đến đây, cuối cùng cũng có cơ hội để rửa oan, lần này nếu thành công, Thôi gia có thể khôi phục, nhưng nếu không thể…”
Hắn bỏ lửng câu nói, nhưng ta lại hiểu được.
Chuyện của Thôi gia liên quan đến cuộc chiến bè phái, tuy ta không hiểu rõ nguyên nhân, nhưng cũng biết thiên uy của lão Hoàng đế không dễ dàng gì mà ngỗ nghịch.
Nếu muốn rửa oan cho năm mươi tám người đã chết của Thôi gia, nói ra thì dễ, làm được thì khó.
Hành động này của Thôi Hạc Minh, chẳng khác gì mò trăng đáy nước, hoang đường vô cùng.
“Nếu ta chết, Nguyệt Thu sau này chỉ là Nguyệt Thu mà thôi.”
Hắn nhìn ta, mang theo sự cầu xin.
Giống như một năm trước ở ngõ Thanh Ngoã, đầy vẻ tuyệt vọng.